Chợ Kết Bạn Việt Nam

Trang chủ Đăng ký Hỏi đáp Danh sách thành viên Lịch Tìm Kiếm Bài gửi hôm nay Đánh dấu là đã đọc
User Info Statistics
Tên tài khoản
Mật khẩu
Trở lại   Chợ Kết Bạn Việt Nam > BẢN TIN 360 ĐỘ > Thế giới đó đây
 
Trả lời
  #1  
Cũ 19-08-2017, 11:44 AM
lephuc01 lephuc01 đang online
Member
 
Tham gia ngày: May 2017
Bài gửi: 32
Mặc định U NHÔM CÁC LOẠI

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

CHUYÊN SX CUNG ỨNG NHÔM U - V - LA - HỘP THANH CÁC LOẠI

NHẬN GIA CỘNG THEO KHUÂN MẪU



LH: 0937655551 - 0983994326



WEDSITE : NHÔM THANH CHỮ U






--------------------------------------------------------------------------------------------------------

Tính theo cả số lượng lẫn giá trị , việc sử dụng nhôm vượt tất thảy các kim khí khác , trừ sắt , và nó đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Nhôm thuần khiết có sức chịu kéo thấp , nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng , kẽm , magiê , mangan và silic. Khi được gia công cơ-nhiệt , các hợp kim nhôm này có các thuộc tính cơ học có xu hướng gia tăng so với bình thường đáng kể.



Các hợp kim nhôm tạo thành một thành phần nông dân quan trọng trong các phi cơ và tên lửa do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng



Khi nhôm được bay hơi trong chân không , nó tạo ra lớp bao phủ cộng chấn cả ánh sáng và bức xạ nhiệt. Các lớp bao trùm này tạo thành một lớp mỏng của ôxít nhôm canh giữ , nó không bị hư hỏng như các lớp bạc bao phủ vẫn hay bị. Trên thực tế , gần như toàn bộ các loại gương hiện đại được làm ra sử dụng lớp cộng chấn bằng nhôm trên mặt sau của sao thủy. Các gương của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm , nhưng là ở mặt trước để tránh các v bên trong mặc dù điều này làm cho bề mặt rất thính hơn với các tổn thương.



Các loại vỏ phủ nhôm đôi khi được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng , nhờ vào biến hóa tiếp nhận bức xạ điện từ của aìc vàng tốt , mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.



Hợp kim nhôm , nhẹ và bền , được dùng để trở tạo các chi tiết của công cụ vận tải ( ô tô , phi cơ , xe tải , toa xe , tàu hỏa , tàu biển , v.v. )



Đóng gói ( can , giấy gói , v.v ) , xử lý nước.



Xây dựng ( cửa sổ , cửa , ván , v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây dẫn phần sau chót của các mạng điện , trực tiếp đến người sử dụng. )



Các hàng tiêu dùng có độ bền cao ( trang thiết bị , đồ nấu bếp , v.v )

Các đường dây tải điện ( mặc dầu độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng , nó nhẹ hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn )



chế tạo máy móc.



mặc dù tự bản thân nó là không nhiễm từ , nhôm được sử dụng trong thép MKM và các từ thạch Alnico.



Nhôm siêu tinh khiết ( SPA ) chứa 99 , 980%-99 , 999% nhôm được sử dụng trong Công lao điện tử và sản xuất đĩa CD.



Nhôm dạng bột thường nhật được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có xác xuất cho thêm vào trong sơn lót , cốt tử là trong xử lí gỗ — khi khô đi , các bông nhôm sẽ tạo ra một lớp kháng nước rất tốt.



Nhôm dương cực hóa là ổn định hơn đối với sự ôxi hóa , và nó được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau của xây dựng.



phần lớn các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính hiện đại được sản xuất từ nhôm vì nó dễ dàng trong sản xuất và độ dẫn nhiệt cao.



Ôxít nhôm , alumina , được tìm thấy trong thiên nhiên dưới dạng corunđum , emery , ruby và saphia và được sử dụng trong làm ra thủy tinh. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong các ống tia laser để làm ra ánh sáng có xác xuất giao thoa.



Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt , nó sử dụng để làm vật liệu rắn cho tên lửa , nhiệt nhôm và các thành phần nông dân của pháo.



3. Công nghệ làm ra nhôm



mặc dầu nhôm là nguyên tố phổ thông trong vỏ trái đất ( 8 , 1% ) , nó lại hiếm trong dạng không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc và đã từng được cho là kim khí quý quý báu hơn vàng ( Người ta nói rằng Napoleon III của Pháp có các bộ đồ ăn bằng nhôm đề phòng cho những người khách quý nhất của ông. Những người khách khác chỉ có bộ đồ ăn bằng vàng ). Vì thế nhôm là kim loại tương đối mới trong Công lao và được làm ra với số lượng Công lao chỉ khoảng trên 100 năm.



Nhôm khi mới được phát hiện là cực kỳ khó tách ra khỏi các loại đá có chứa nó. Vì tuốt nhôm của địa cầu tồn tại dưới dạng các hợp chất nên nó là kim loại khó nhận được nhất. Lý do là nhôm bị ôxi hóa rất nhanh và ôxít nhôm là một hợp chất cực kỳ bền vững , không giống như gỉ sắt , nó không bị bong ra.



Sự tái chế nhôm từ các phế thải đã trở nên một trong những thành phần nông dân quan yếu của Công lao luyện nhôm. Việc tái chế giản đơn là nấu chảy kim khí , nó rẻ hơn rất nhiều so với làm ra từ quặng. Việc tinh luyện nhôm mất mát nhiều điện năng; việc tái chế định mức hao khoảng 5% năng lượng để làm ra ra nó trên cùng một khối lượng sản phẩm. Mặc dù cho đến đầu thập niên 1900 , việc tái chế nhôm không còn là một khu vực mới. Tuy nhiên , nó là khu vực hoạt động trầm lắng cho thâu những năm cuối thập niên 1960 khi sự bùng nổ của việc sử dụng nhôm để làm vỏ của các loại đồ uống , kể từ đó việc tái chế nhôm được đưa vào trong tầm để ý của cộng đồng. Các nguồn tái chế nhôm bao gồm ô tô cũ , cửa và cửa sổ nhôm cũ , các thiết bị Nhà ở cũ , contenơ và các sản phẩm khác.



Nhôm là một kim loại hoạt động và rất khó phân lập nó ra từ quặng , ôxít nhôm ( Al2O3 ). Việc khử trực tiếp , nếu với cacbon , là không kinh tế vì ôxít nhôm có điểm nóng chảy cao ( khoảng 2.000°C ). Vì thế , nó được Chia ra bằng cách điện phân – ôxít nhôm được hòa tan trong cryôlit nóng chảy và sau đó bị khử bởi dòng điện thành nhôm kim loại. Theo công nghệ này , nhiệt độ nóng chảy của hỗn tạp chỉ còn khoảng 950-980°C. Cryôlit bổn sơ được tìm thấy như một khoáng vật ở Greenland , nhưng sau đó được thay thế bằng cryôlit tổng hợp. Cryôlit là hổ lốn của các florua nhôm , natri và canxi ( Na3AlF6 ). Ôxít nhôm trong dạng bột màu trắng thu được từ quặng bôxít tinh luyện , quặng này có vẻ đan vì chứa khoảng 30-40% ôxít sắt. Nó được tinh chế theo công nghệ Bayer. Trước khi có công nghệ này , công nghệ được sử dụng là công nghệ Deville.



Công nghệ điện phân thay thế cho công nghệ Wohler , là công nghệ khử clorua nhôm khan với kali. Các điện cực trong điện phân ôxít nhôm làm từ cacbon. Khi quặng bị nóng chảy , các ion của nó chuyển động tự do. Đặc tính tại catốt mang điện âm là:



Al 3+ + 3 e- = Al



Ở đây các ion nhôm bị chuyển biến ( nhận thêm điện tử ). Nhôm kim khí sau đó chìm xuống và được đưa ra khỏi lò điện phân.

Tại cực dương ( anốt ) ôxy dạng khí được tạo thành:

2O 2 - = O 2 + 4 e-



Cực dương cacbon bị ôxi hóa bởi ôxy. Cực dương bị hao mòn dần và phải được thay thế thường xuyên , do nó bị hao hụt do phản ứng:



O 2 + C = CO 2



ngược lại với anốt , các catốt gần như không bị tiêu hao trong quá trình điện phân do không có ôxy ở gần nó. Catốt cacbon được canh giữ bởi nhôm lỏng trong lò. Các catốt bị ăn mòn chính yếu là do các biến hóa điện hóa. Sau 5-10 năm , phụ thuộc vào dòng điện sử dụng trong quá trình điện phân , các lò điện phân cần phải sửa sang toàn bộ do các catốt đã bị bào mòn hoàn toàn.



Điện phân nhôm bằng công nghệ Hall-Heroult mất mát nhiều điện năng , nhưng các công nghệ khác xoành xoạch có khuyết điểm về mặt kinh tế hay môi trường hơn công nghệ này. Tiêu chuẩn mất mát nang lu?ng phổ thông là khoảng 14 , 5-15 , 5 kWh/kg nhôm được sản xuất. Các lò đương đại có mức tiêu thụ điện lực khoảng 12 , 8 kWh/kg. Dòng điện để thực hành công việc điện phân này đối với các công nghệ cũ là 100.000-200.000 A. Các lò hiện này làm việc với cường độ dòng điện khoảng 350.000 A. Các lò thử nghiệm làm việc với dòng điện khoảng 500.000 A.



Năng lượng điện chiếm khoảng 20-40% trong giá thành của làm ra nhôm , phụ thuộc vào nơi đặt lò nhôm. Các lò luyện nhôm có khuynh hướng được đặt ở những chuye mà nguồn cung cấp điện dồi dào với giá điện rẻ , như Nam Phi , đảo miền nam New Zealand , Úc , Trung Quốc , Trung Đông , Nga và Quebec ở Canada. Trung Quốc hiện là nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới ( năm 2004 )



4. Các đồng vị của nhôm



Nhôm có chín đồng vị , số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 ( đồng vị ổn định ) và Al-26 ( đồng vị phóng xạ , chu kỳ bán hủy t=7 , 2.10 5

năm ) tìm thấy trong thiên nhiên , tuy nhiên Al-27 có sự phổ quát trong thiên nhiên là 100%. Al-26 được làm ra từ agon trong khí quyển do va chạm sinh ra bởi các tia vũ trụ proton. Các đồng vị của nhôm có ứng dụng thực tế trong việc tính tuổi của trầm tích dưới biển , các vết mangan , nước đóng băng , thạch anh trong đá lộ thiên , và các tinh thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để nghiên cứu vai trò của việc chuyển hóa , lắng đọng , lưu trữ trầm tích , thời gian cháy và sự xâm thực trong thang độ thời gian 105 đến 106 năm ( về sai số ).



Al-26 nguồn gốc vũ trụ hàng đầu được sử dụng để nghiên cứu trăng và các thiên thạch. Các thành phần của tinh thạch , sau khi thoát khỏi nguồn gốc của chúng , trong lúc chu du trong không gian bị tiến công bởi các tia vũ trụ , sinh ra các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi xuống quả đất , tấm chắn khí quyển đã canh gác cho các phần tử này không ra đời thêm Al-26 , và sự phân rã của nó có thể sử dụng để chính xác tuổi trên địa cầu của các thiên thạch này. Các nghiên cứu về thiên thạch cho thấy Al-26 là tương đối phổ quát trong thời gian hình thành hệ hành tinh của chúng tôi. Có khả năng là nang lu?ng được phóng thích bởi sự phân rã Al-26 liên đới đến sự nấu chảy lại và sự sai dị của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành cách đây 4 , 6 tỷ năm. Trong tập san Science ngày 14 tháng 1 năm 2005 đã thông báo rằng các cụm 13 nguyên tử nhôm ( Al13 ) được tạo ra có tính chất giống như nguyên tử iốt; và 14 nguyên tử nhôm ( Al14 ) có tính chất giống như nguyên tử kim loại kiềm thổ. Các nhà Học hỏi còn liên kết 12 nguyên tử iốt với cụm Al13 để tạo ra một lớp mới của pôlyiotua. Sự phát kiến này được thông cáo là Cởi ra khả năng của các đặc tính mới của bảng tuần hoàn các nguyên tố: "các nguyên tố cụm". Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Shiv N. Khanna ( Virginia Commonwealth University ) và A. Welford Castleman Jr ( Penn State University ).



5. Các hợp chất của nhôm



* AlH được pha chế khi nhôm bị nung nóng ở nhiệt độ 1500°C trong hiđrô.



* Al2O được điều chế bằng cách nung nóng ôxít thường nhật , Al2O3 , với silic ở nhiệt độ 1800°C trong chân không.



* Al2S được phối chế bằng cách nung nóng Al2S3 với vỏ nhôm ở nhiệt độ 1300°C trong chân không. Nó chóng vánh bị chuyển thành các chất ban sơ. Selenua được pha chế tương tự.



* AlF , AlCl và AlBr tồn tại trong pha khí khi ba halua được nung nóng cùng với nhôm.



* Subôxít nhôm , AlO có thể được tồn tại khi bột nhôm cháy trong ôxy.



* Hiđrua nhôm , ( AlH3 )n , có xác xuất sản xuất từ trimêthyl nhôm và hiđrô dư dả. Nó cháy kèm nổ trong khí trời. Nó cũng có xác xuất được điều chế bằng phản ứng của clorua nhôm trên hiđrua liti trong dung dịch ête , nhưng không thể cô lập thành dạng không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc từ dung dịch.



* Cacbua nhôm , Al4C3 được làm ra bằng cách nung nóng hổ lốn hai nguyên tố trên 1.000°C. Các tinh thể màu vàng nhạt có kiến trúc lưới không đơn giản , và biến hóa với nước hay axít loãng tạo ra mêtan. Axêtylua , Al2( C2 )3 , được điều chế bằng cách cho axêtylen đi qua nhôm nóng.



* Nitrua nhôm , AlN , có xác xuất được làm ra từ các nguyên tố ở nhiệt độ 800°C. Nó bị thủy phân bởi nước tạo ra amôniắc và hiđrôxít nhôm.



* Phốtphua nhôm , AlP , được sản xuất na ná , và bị thủy phân thành phốtphin ( PH3 )

.

* Ôxít nhôm , Al2O3 , tìm thấy trong thiên nhiên như là corunđum , và có xác xuất phối chế bằng cách đốt nóng nhôm với ôxy hay nung nóng hiđrôxít , nitrat hoặc sulfat. Như là một loại đá quý , độ cứng của nó chỉ thua có kim cương , nitrua bo và cacborunđum. Nó gần như không hòa tan trong nước.



* Hiđrôxít nhôm( Al( OH )3 ) có khả năng được điều chế như là một chất kết tủa dạng gelatin bằng cách cho thêm amôniắc vào trong dung dịch của các muối nhôm. Nó là lưỡng tính , vừa là bazơ yếu vừa là axít yếu , có xác xuất tạo ra các muối aluminat với kim khí kiềm. Nó tồn tại trong các dạng tinh thể khác nhau



* Al2S3 , có xác xuất pha chế bằng cách cho sulfua hiđrô đi qua bột nhôm. Nó là một chất đa hình.



* Florua nhôm , AlF3 , có thể pha chế bằng cách cho hai nguyên tố hiệu quả với nhau hay cho hiđrôxít nhôm hiệu quả với HF. Nó tạo thành phân tử lớn , bay hơi không qua pha nóng chảy ở nhiệt độ 1.291°C ( thăng hoa ). Nó là một chất rất trơ. Các trihalua khác là các chất dime , có kiến trúc cầu nối.



* Các hợp chất hữu cơ của nhôm có công thức chung AlR3 tồn tại và nếu không phải là các phân tử lớn , thì là các chất dime hay trime. Chúng được sử dụng trong tổng hợp chất hữu cơ , nếu trimêtyl nhôm.



* Các chất alumino-hyđrua của phần nhiều các nguyên tố có khả năng tích điện dương đã được biết , trong đó đáng được coi trọng nhất là hiđrua nhôm liti , Li[AlH4]. Khi bị đốt nóng , nó phân hủy thành nhôm , hiđrô và hiđrua liti , nó bị thủy phân trong nước. Nó có nhiều ứng dụng trong hóa hữu cơ. Các alumino-halua [AlR4] có kiến trúc tương tự.



6. Một số điểm lưu ý khi sử dụng nhôm



Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ thông nhất mà không có chức năng có ích nào cho các cơ thể sống , nhưng có một số người bị dị tương ứng nó — họ bị các chứng viêm da do tiếp kiến với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ hôi ( phấn rôm ) , các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng tiếp thu các chất dinh dưỡng từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm , nôn ọe hay các triệu chứng khác của bị trúng độc nhôm do ăn ( uống ) các sản phẩm như Kaopectate® ( thuốc chống đi tả ) , Amphojel® và Maalox® ( thuốc chống chua ). Đối với những người khác , nhôm không bị coi là như các kim khí nặng , nhưng có dấu hiệu của ngộ độc nếu nó được hấp thụ nhiều , mặc dầu việc sử dụng các đồ Bếp bằng nhôm ( phổ biến do khả năng chống bào mòn và dẫn nhiệt tốt ) nhìn chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng bị trúng độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng lan tràn thặng dư các chất hút mồ hôi chứa nhôm có lẽ là nguồn độc nhất vô nhị ra đời sự ngộ độc nhôm. Người ta ý rằng nhôm có liên quan đến bệnh Alzheimer , mặc dầu các nghiên cứu gần đây đã bị bác bỏ.



Cần cẩn thận để không cho nhôm tiếp xúc với một số chất nào đó có xác xuất ăn mòn nó rất nhanh. Ví dụ , chỉ một lượng nhỏ thủy ngân tiếp xúc với bề mặt của miếng nhôm có thể gây thiệt hại nhiều lớp ôxít nhôm canh gác thường nhật có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ , thậm chí cả một một cái xà có kiến trúc nặng nề có thể bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do này , các loại nhiệt biểu thuốc độc không được phép trong nhiều trường bay và hãng v , vì nhôm là thành phần cấu trúc cơ bản của các máy bay.
Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
Trả lời


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở
Chuyển đến

SangNhuong.com


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 12:58 AM


© 2008 - 2024 Nhóm phát triển website và thành viên SANGNHUONG.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.